tiếng chim vách núi nhỏ dần
Tiếng chim vách núi nhỏ dần "vách núi" đã được đặt lên trước "nhỏ dần". Tác giả đặt như thế làm tăng thêm vẻ gợi cảm cho câu thơ, gợi cảm giác về tiếng chim lẻ loi trên vách núi sừng sững. Tiếng chim nhỏ dần xuống tạo thành một sự mơ hồ, thơ mộng.
Tiếng chim vách núi nhỏ dần "Vách núi" đã đặt lên trước "nhỏ dần" để làm tăng thêm vẻ gợi cảm cho câu thơ, gợi cảm giác về tiếng chim lẻ loi trên vách núi sừng sững. Tiếng chim nhỏ dần xuống tạo thành một sự mơ hồ, thơ mộng.
Ueli Steck (phát âm tiếng Đức: , 4 tháng 10 năm 1976 - ngày 30 tháng 4 năm 2017) là một nhà leo vách đá và leo núi người Thụy Sĩ.
Vay Tien Online Me. Tham khảo í trộn lẫn a và b r nha “ Tiếng chim vách núi nhỏ dần, Rì rầm tiếng suối khi gần, khi xa Ngoài thềm rơi cái lá đa Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” - Tác giả sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ ở câu thơ đầu Tiếng chim vách núi nhỏ dần “Vách núi” đã đặt lên trước “nhỏ dần” để làm tăng thêm vẻ gợi cảm cho câu thơ, gợi cảm giác về tiếng chim lẻ loi trên vách núi sừng sững. Tiếng chim nhỏ dần xuống tạo thành một sự mơ hồ, thơ mộng. Đọc câu thơ ta cảm nhận được sự nhỏ bé, vi vu của tiếng chim hót trên sự hùng vĩ của vách núi cao. - Đến câu thơ thứ hai Rì rầm tiếng suối khi gần khi xa Âm thanh của tiếng suối rất phù hợp với tiếng chim ở câu thơ thứ nhất . Tác giả đảo ngữ đưa “rì rầm” lên đầu câu để nhấn mạnh âm thanh nhẹ nhàng, êm dịu của tiếng suối lúc gần lúc xa. Câu thơ tạo cảm giác rất êm ái, tiếp tục nhân lên cái ấn tượng dịu dàng mà tiếng chim trên vách núi đã để lại, nhằm khắc họa thật rõ nét quang cảnh huyền ảo thơ mộng của đêm Côn Sơn. Cũng có thể hiểu”rì rầm tiếng suối” như là một cách nhân hóa suối tâm sự, suối trò chuyện… Tiếng chim nhỏ dần, tiếng suối xa dần tạo sự yên tĩnh làm ta có thể nghe tiếng rơi rất mỏng của cái lá đa ở ngay ngoài thềm. - Câu thơ thứ ba Ngoài thêm rơi cái lá đa Vẫn là âm thanh nhẹ nhàng, thật khẽ. Tác giả đưa từ “rơi” lên trước “cái lá đa” mà không làm giảm đi sự khẽ khàng đó. Một hình ảnh gợi cảm, sinh động, là động từ “rơi” gợi cảm giác rõ ràng về một sự vận động tuy chỉ là cái lá đa nhưng thật nhẹ. - Ở câu cuối Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng Tác giả đã tạo cho sự rơi xuống của chiếc lá đa một sức sống, một tính từ “mỏng” được dùng như hỗ trợ động từ "rơi". Chiếc lá đa trở nên có hồn, biết rơi thật nhẹ, thật mỏng để không làm xao động cái cảm giác êm dịu ở các câu trên . “Như là rơi nghiêng”, biện pháp so sánh bình thường nhưng từ “rơi nghiêng” thật độc đáo và chính xác. Chúng ta hình dung ngay cảnh một chiếc lá đa chao nhẹ trong không khí, rơi xuống thật nhẹ nhàng. Tóm lại với những biện pháp tu từ đảo ngữ, so sánh, nhân hóa được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, điêu luyện, nên đoạn thơ có tính biểu cảm rất cao.
- Trong một cuộc trò chuyện, nhà thơ Trần Đăng Khoa tự nhận là mình đã… bịa “Anh đến Côn Sơn rồi chứ? Làm gì có cây đa nào nhưng em nghĩ, đã nói “đền” phải có “đa” để có “Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Xung quanh việc gieo vần cho thơ, quả thật, có rất nhiều kỳ tích. Hãy cùng ngâm ngợi lại những câu thơ đẹp này. Từ 'nối điêu' trong 'Truyện Kiều' “Hay hèn lẽ cũng nối điêu” là một câu thơ trong lời nói khá dài của Thúy Kiều đối đáp với Thúc Sinh trong Truyện Kiều. Tình huống dẫn tới lời thoại đó là khi Thuý Kiều còn trong thân phận gái lầu xanh, dưới trướng của Tú Bà, thì “Khách du bỗng có một người/ Kỳ Tâm học Thúc cũng nòi thư hương”. Đó chính là chàng Thúc Sinh “quen thói bốc rời/ Trăm nghìn đổ một trận cười như không”. 1. Theo “mức khoán” của lao động thơ ca thì chỉ cần 3 vần cho 4 câu. Chính Nguyễn Du đã nhắc về định lượng này “Rút trâm sẵn giắt mái đầu / Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần” Truyện Kiều! Ấy vậy mà trong thời sung sức nhất, nhà thơ Tố Hữu vẫn “tăng năng suất” để “vượt khung” “Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan Đường bạch dương sương trắng nắng tràn Anh đi, nghe tiếng người xưa vọng Một giọng thơ ngâm một giọng đàn” Thử đếm, lan - tan- tràn - ngâm - đàn đã là 5 vần lại thêm 3 vần đường - dương - sương và chưa hết, vọng - giọng vẫn còn 2 vần nữa! Đó là chưa kể, xét trong phạm vi vần thông thì 2 chữ xưa và thơ cũng cùng vần với nhau! Chưa biết khổ thơ trên đã phải là khổ thơ nhiều vần nhất, chỉ biết thơ “cầu” 3, thi sĩ “cung” tới 10, vượt kế hoạch hơn 300% và nhờ vậy khổ thơ vang lên như một hợp xướng khi 2 khi 3 khi 5 bè đồng thanh. Tranh vẽ “Truyện Kiều” của họa sĩ trẻ Phạm Đức Hạnh 2. Đọc Chinh phụ ngâm tới câu số 203 ta được biết, nỗi buồn của người thiếu phụ nhớ chồng đã khiến thời gian chậm lại, 1 giờ dài bằng cả năm, “khắc giờ đằng đẵng như năm”, cái ý mà Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm muốn nói với bạn đọc là vậy. Nhưng khổ nỗi, liền trên câu này, câu 202 lại là “Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”. Chữ “bên” không ăn vần với chữ “năm”, cho nên chữ năm phải được thay bằng một chữ khác có vần ên! Và chữ niên khác âm nhưng đồng nghĩa đã được chọn. Khi chữ này đứng vào vị trí ấy, đoạn thơ trở nên liền lạc “Gà eo óc gáy sương năm trống Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên Khắc giờ đằng đẵng như niên Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa” Đó là phép gieo vần theo kiểu “thế chữ”. Thế chữ vài bằng chữ va, Nguyễn Du đã giữ lấy vần a trong câu “Một vùng cỏ áy bóng tà/ Gió hiu hiu thổi một và bông lau”. Cũng để giữ lấy vần a, trong Truyện Kiều nhiều lần chữ đã giọng trắc được thế bằng chữ đà giọng bằng, đã có câu “Nhẫn từ quán khách lân la/ Tuần trăng thấm thoắt nay đà thêm hai”; lại có câu “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn Đông đà sang Xuân”… “Chinh phụ ngâm” - một đỉnh cao của thể thơ song thất lục bát 3. Sinh thời nhà thơ Xuân Diệu rất khoái chữ “choang” trong câu ca dao, “Xuềnh xoàng đánh bạn xuềnh xoàng/ Trẻ thời bạn trẻ già choang bạn già”. Chữ ấy, rơi vào vị trí ấy, tượng thanh mà gợi hình, vang lên như chuông đã tìm được dùi, Bá Nha đã thấy Tử Kỳ, cụ ông đã kết cụ bà! Nói cho hết ý thì ta nghe được trong 1 chữ ấy âm thanh sảng khoái khi “dùi ông” đụng tới được đại hồng chung “chuông bà”! Mà thứ nhạc cụ gõ này thì vốn là thứ “Chuông già đồng điếu chuông kêu/ Anh già lời tán em xiêu tấm lòng”. “Già choang bạn già” như thế, hèn gì nhà thơ thời nay Nguyễn Duy muốn “Bao giờ cho tới ngày xưa/ yêu như các cụ cho vừa lòng ta…”! Nội một chữ “choang” kia thôi, vang lên đầy đủ ý tứ của các sự tìm bạn, kết bạn, đãi bạn, giã bạn… tất tần tật các ý ấy chỉ từ cái nghĩa mới hình thành tức thời khi “choang” theo đà vần “xuềnh xoàng” mà nâng cấp lên và có được. Đó là nghĩa lâm thời của chữ, là nghĩa chỉ xuất hiện trong một văn cảnh cụ thể nhờ… vần. 4. Nói lý thuyết thì phức tạp thế, nhưng thao tác đã quen tay, công việc làm vần trong thơ ca lại đơn giản! Nhiều khi câu trên là vần a cho nên câu dưới tất mọc lên vườn cà hay cây đa chứ không thể là phù dung hay lệ liễu. Đó là trường hợp Trần Đăng Khoa làm kỹ xảo, tạo hình cho tiếng, trong bài thơ Đêm Côn Sơn rất nổi tiếng của ông Nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa “Tiếng chim vách núi nhỏ dần Thì thầm tiếng suối khi gần khi xa Ngoài thềm rơi chiếc lá đa Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” Chẳng cần giâm, chiết gì hết, trong bài thơ trên, chính chữ a đã gieo hạt vần để cây đa kia mọc lên mà rụng lá xuống. Về kỹ xảo này, chính Trần Đăng Khoa đã giải thích trong Thế Giới Mới số 289 với nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi “Anh đến Côn Sơn rồi chứ? Làm gì có cây đa nào nhưng em nghĩ, đã nói “đền” phải có “đa” để có “Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Từ 'nối điêu' trong 'Truyện Kiều' Sức sống trường tồn của 'Truyện Kiều' trong đời sống đương đại Bản 'Kiều Kinh' 1898 và con số ước lệ trong 'Truyện Kiều' 5. Nhờ vần, người Việt có Tập Kiều, một thú chơi tao nhã tên một tập sách trong bộ đọc Kiều nhiều tập của Phạm Đan Quế. Nhờ tập Kiều, người viết bài này được một bạn thơ trên Gia Lai tặng cho một văn bản kỳ lạ, chỉ 8 dòng thơ in mà dẫn ra được những 9 câu Kiều “Than ôi sắc nước hương trời Đã đành nước chẩy hoa trôi lỡ làng Ôm lòng đòi đoạn xa gần Một xe trong cõi hồng trần như bay Thương ôi tài sắc bậc này Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời Họa bao giờ có gặp người Mà lòng đã chắc những ngày một hai Bài tập Kiều của Dương Thị Thu Vân Nói về một mỹ nữ “sắc nước hương trời” bằng thơ lục bát có vần lưng, vần chân - yêu vận, cước vận - có eo có ngực thì hợp quá đi! Nhưng một cơ thể thơ ca ngoài vẻ đẹp da thịt như thế, còn cần đến sự khỏe mạnh, vững vàng. Và sự vững vàng này, bạn thơ Thu Vân tạo bằng 8 cái đinh chữ như 8 kim thoa găm kỹ lưỡng vào một mái tóc, giúp người tập Kiều gói ghém, nâng niu những 9 câu Kiều trong một tờ thơ in 8 dòng Truyện Kiều! Câu thứ 9 người viết bài này đã cố tình gõ phím “bold” in đậm để bạn đọc dễ nhận “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”…
Đề bàiCâu 1 5 điểm Phân tích các biện pháp tu từ trong đoạn thơ sauTiếng chim vách núi nhỏ dần,Rì rầm tiếng suối khi gần, khi thềm rơi chiếc lá đa,Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng. Đêm Côn Sơn - Trần Đăng KhoaCâu 15 điểm Hs chỉ ra được các biện pháp tu từ được sử dụng trong mỗi câu thơ và phân tíchTiếng chim vách núi nhỏ dần Nghệ thuật đảo ngữ từ “vách núi” được đặt lên trước “nhỏ dần” tạo nên sự hài hoà, đăng đối cho câu thơ đồng thời gợi không gian bao la, tĩnh lặng trong đêm ở Côn Sơn. Ta cảm nhận được sự nhỏ bé, cô đơn, lẻ loi của tiếng chim trước sự hùng vĩ của thiên nhiên, núi rừng 1 điểm.Rì rầm tiếng suối khi gần, khi xa Nghệ thuật đảo ngữ từ láy “rì rầm” được đặt lên trước từ “tiếng suối” tạo nên âm điệu dìu dặt, nhịp nhàng, nhấn mạnh âm thanh nhẹ nhàng, êm dịu của tiếng suối lúc gần, lúc xa trong đêm vắng. Câu thơ khắc hoạ bức tranh đêm Côn Sơn vừa thơ mộng vừa huyền ảo và huyền bí 1 điểm.Ngoài thềm rơi chiếc lá đa Cũng là nghệ thuật đảo ngữ động từ “rơi” được đưa lên trước “chiếc lá đa” vừa tạo sự nhịp nhàng cho câu thơ, vừa gợi tả sự vận động thật dịu nhẹ, khẽ khàng của chiếc lá 1 điểm.Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng Nghệ thuật ẩn dụ thuộc kiểu ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “mỏng” chỉ đặc điểm, kích thước của sự vật được cảm nhận bằng thị giác, xúc giác “mỏng” tiếng rơi được cảm nhận qua thính giác. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng nghệ thuật so sánh, miêu tả trạng thái rơi của chiếc lá thật độc đáo “rơi nghiêng”, tạo ra hình ảnh thơ vừa giàu chất tạo hình vừa mang giá trị biểu cảm cao. Chiếc lá đa lìa cành không chỉ được cảm nhận bằng xúc giác, thị giác, thính giác mà bằng cả tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của nhà thơ 2 điểm. Bạn đang xem tài liệu "Đề ôn thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênĐề bàiCâu 1 5 điểm Phân tích các biện pháp tu từ trong đoạn thơ sau Tiếng chim vách núi nhỏ dần, Rì rầm tiếng suối khi gần, khi xa. Ngoài thềm rơi chiếc lá đa, Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng. Đêm Côn Sơn - Trần Đăng Khoa Câu 15 điểm Hs chỉ ra được các biện pháp tu từ được sử dụng trong mỗi câu thơ và phân tích Tiếng chim vách núi nhỏ dần Nghệ thuật đảo ngữ từ “vách núi” được đặt lên trước “nhỏ dần” tạo nên sự hài hoà, đăng đối cho câu thơ đồng thời gợi không gian bao la, tĩnh lặng trong đêm ở Côn Sơn. Ta cảm nhận được sự nhỏ bé, cô đơn, lẻ loi của tiếng chim trước sự hùng vĩ của thiên nhiên, núi rừng 1 điểm. Rì rầm tiếng suối khi gần, khi xa Nghệ thuật đảo ngữ từ láy “rì rầm” được đặt lên trước từ “tiếng suối” tạo nên âm điệu dìu dặt, nhịp nhàng, nhấn mạnh âm thanh nhẹ nhàng, êm dịu của tiếng suối lúc gần, lúc xa trong đêm vắng. Câu thơ khắc hoạ bức tranh đêm Côn Sơn vừa thơ mộng vừa huyền ảo và huyền bí 1 điểm. Ngoài thềm rơi chiếc lá đa Cũng là nghệ thuật đảo ngữ động từ “rơi” được đưa lên trước “chiếc lá đa” vừa tạo sự nhịp nhàng cho câu thơ, vừa gợi tả sự vận động thật dịu nhẹ, khẽ khàng của chiếc lá 1 điểm. Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng Nghệ thuật ẩn dụ thuộc kiểu ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “mỏng” chỉ đặc điểm, kích thước của sự vật được cảm nhận bằng thị giác, xúc giác à “mỏng” tiếng rơi được cảm nhận qua thính giác. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng nghệ thuật so sánh, miêu tả trạng thái rơi của chiếc lá thật độc đáo “rơi nghiêng”, tạo ra hình ảnh thơ vừa giàu chất tạo hình vừa mang giá trị biểu cảm cao. Chiếc lá đa lìa cành không chỉ được cảm nhận bằng xúc giác, thị giác, thính giác mà bằng cả tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của nhà thơ 2 điểm. Bài tập Cã ý kiÕn cho r»ng “ Mét trong nh÷ng yÕu tè kh¼ng Þnh sù thµnh cng cña t¸c phÈm truyÖn lµ gi¸ trÞ lêi tho¹i cña c¸c nh©n vËt. Ngêi thëng thøc ph¶i nhËn ra îc gi¸ trÞ Êy th× míi hiÓu hÕt îc vÎ Ñp vµ ý nghÜa cña v¨n ch¬ng’’ Em hiÓu ý kiÕn trªn nh thÕ nµo ? Hy lµm s¸ng tá ý kiÕn trªn qua t¸c phÈm “ ChuyÖn ngêi con g¸i Nam X¬ng ’’ cña NguyÔn D÷. MB - Giíi thiÖu chung vÊn Ò - Nªu vÊn Ò “Mét trong nh÷ng yÕu tè’’ TB 1. HiÓu vÊn Ò 2 iÓm - Dông ý cña nhµ v¨n - T¸c dông cña lêi tho¹i + ThÓ hiÖn tÝnh c¸ch nh©n vËt + Miªu t¶ néi t©m nh©n vËt + T¹o sù liªn kÕt trong v¨n b¶n 2. Dïng c¸c lêi tho¹i trong “ ChuyÖn ngêi con g¸i Nam x¬ng’’ Ó minh ho¹ ý kiÕn trªn - Lêi tho¹i cña Vò N¬ng + Lóc chia tay chång ra trËn + Lóc bÞ nghi oan + Lóc bÞ uæi ra khái nhµ + Tríc khi nh¶y xuèng sng tù vÉn - Lêi tho¹i cña b §¶n + Khi cïng bè i th¨m mé bµ néi + Sau khi mÑ mÊt - Lêi tho¹i cña mÑ Tr¬ng Sinh tríc lóc qua êi Häc sinh ph¶i lµm râ îc dông ý, t¸c dông cña c¸c lêi tho¹i vµ sù s¸ng t¹o cña nhµ v¨n trong ã. KL- Kh¼ng Þnh l¹i gi¸ trÞ cña lêi tho¹i - §¸nh gi¸ chung gi¸ trÞ cña t¸c phÈm Tài liệu đính kèmhsg de
tiếng chim vách núi nhỏ dần