tràng giang thuộc thể thơ gì
Đáng chú ý là Amip khi ở thành ruột còn có khả năng xâm nhập vào máu và gây bệnh ở các bộ phận khác trong cơ thể như gan, phổi, não, 2. Chẩn đoán nhiễm Amip ngoài đại tràng Những bệnh ngoài đại tràng do Amip gây ra nếu chỉ dựa vào triệu chứng thì rất khó biết chính xác, vì những triệu chứng này khá giống với các bệnh khác.
- Câu thơ đề từ : "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" Câu thơ định hướng cảm xúc chủ đạo của bài thơ : nỗi buồn sầu lan toả, nhẹ nhàng mà lắng sâu trước cảnh sông dài, trời rộng (tràng giang), đồng thời tạo nên vẻ đẹp hài hoà vừa cổ điển ( của sông nước mây trời ) với hiện đại ( nỗi buồn nhớ bâng khuâng) của chàng thanh niên thời Thơ mới.
Bản đồ tỉnh Bắc Giang chi tiết mới nhất 2022. 5 Tháng Ba, 2021. Bắc Giang là một tỉnh thuộc vùng đông bắc Việt Nam. Về quy hoạch kinh tế trước đây Bắc Giang nằm trong vùng trung du và miền núi phía bắc, từ năm 2012 là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Bắc
Vay Tien Online Me. Ra đời trong phong trào thơ mới, Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu đặc sắc nhất. Đặc điểm chính của Thơ Mới là cái mới, lạ, chất phương Đông kết hợp với phương Tây, hòa quyện làm nên một phong trào thơ ca với những tác phẩm và những nhà thơ tiêu biểu. Xôn xao bởi nó có nhiều cái mới, cái lạ. Và "buồn" bởi cái thế sự lúc bấy giờ và tâm sự của những nhà thơ mới, họ của nhạy cảm, với bản thân mình và với xã hội đương thời - thơ ơ, dửng dưng. Đó là lí do vì sao ta có thể nói, “Tràng giang” mang âm hưởng sâu sắc của thời đại mà nó ra đời vì nó diễn tả được nỗi buồn của cả một thời đang xem Tác phẩm tràng giangMở đầu bài thơ, một nỗi buồn đậm đặc đã chiếm trọn toàn bộ, như thể định hướng cho cảm xúc chính trong bài thơSóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song về nước lại, sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy hay nhất trong khổ thơ này là cách gieo vần. Nhà thơ đã viết “tràng giang” thay vì “trường giang” vì vần “ang” tạo cảm giác kéo dài, vừa cả trong không gian lẫn thời gian để có thể diễn tả trọn vẹn hình ảnh của một con sông vừa dài vừa rộng, tạo cảm giác buồn hiu hắt, “buồn điệp điệp” – nỗi buồn chồng chất không thể nào tháo gỡ. Nhà thơ chỉ lựa chọn một vài hình ảnh để miêu tả con sông. Đó là sóng, thuyền, và củi khô. Những hình ảnh đứng độc lập riêng lẻ để diễn tả mức độ cao nhất của sự cô đơn. Thuyền và nước tách đôi, củi lạc lõng trôi một mình. Nhà thơ sử dụng các tính từ diễn tả sự cô đơn “sầu trăm ngả”, “lạc” một cách rất tài tình và sáng tạo. Tứ thơ “Tràng giang” mang nét cổ điển như thơ xưa Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Hàn Mặc Tử cũng đã từng có những câu thơGió theo lối gió, mây đường mâyDòng nước buồn thiu, hoa bắp layThuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay?Đặc biệt cách sử dụng đảo ngữ khi đưa số từ “một” ra sau hình ảnh củi càng làm tăng thêm nỗi hiu hắt của lòng người. Nhấn mạnh sự khô héo thiếu sức sống của tự nhiên. Có thể nói đây là cảm hứng chung của thời đại, khi các nhà thơ như bị “đánh lưới” trước hàng trăm con đườngTôi là con nai bị chiều đánh lưới,Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tốiMà “Tràng giang” là bài thơ thể hiện rõ nhất nỗi buồn thời đại thơ thứ hai tiếp tục nối dài cảm xúc ấyLơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô khổ thơ này có xuất hiện dấu hiệu của sự sống “chợ chiều” song chỉ là một nét thoáng qua trong chốc lát. Những hình ảnh “hồn nhỏ”, “làng xa”, “sông dài”, “trời rộng” diễn tả không gian đang càng được mở rộng ra tuyệt đối. Nhịp thơ vẫn vô cùng chậm rãi, diễn tả sự buồn chán của tác giả. Huy Cận thật khéo léo khi sử dụng hai từ láy trong cùng một câu thơ để miêu tả cảnh hoang vu, vắng vẻ hai bên bờ sông "Lơ thơ" - thưa thớt, ít ỏi, " đìu hiu" - vắng lặng, ít người. Trên "cồn nhỏ" làn gió phảng phất không khí buồn, ảm đạm của chốn ít người, thiếu sức sống. Nó u sầu đến nỗi không nghe thấy tiếng ồn ào của phiên chợ chiều. "Đâu" diễn tả cảm giác mơ hồ, không xác định được điểm tựa để bám cao của ngôn từ được thể hiện ở từ “sâu chót vót”, tính từ chót vót là từ sử dụng cho độ cao lại đặt cạnh tính từ “sâu”. Chính sự sáng tạo này đã mở ra một không gian thăm thẳm, nơi mà chính lòng của ông cũng đang chán nản và bế tắc. Các cặp từ đối nhau “nắng xuống” – “trời lên”, “sông dài”- “trời rộng” đã diễn tả sự chuyển động của cảnh vật, đồng thời giúp vẽ nên cảnh vật đa chiều, đa hướng. Khổ thơ đã vẽ lên một bức tranh thiếu sức sống, lạc lõng và cô đơn của thiên nhiên rộng lớn. Hoài Thanh – tác giả Thi nhân Việt Nam – viết “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh...”. Điều này được thể hiện rất rõ trong bài thơ “Tràng Giang”.Nỗi buồn trong “Tràng giang” không phải là nỗi buồn cá nhân, mà là nỗi sầu của thế hệ, sầu thời thế, tự thấy mình như bơ vơ, không lối thoátBèo giạt về đâu, hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu. Hình ảnh cánh bèo là một hình ảnh cổ điển của thi ca Việt Nam, thường xuyên diễn tả sự bơ vơ. Cánh bèo của Huy Cận, không xuất hiện nhỏ lẻ mà xuất hiện theo “hàng nối hàng”, song chính hình ảnh chỉ toàn là bèo đấy đã tạo cảm giác nhàm chán, bất định trong cuộc sống. Sông vắng đò, vắng cả những chiếc cầu. Cầu và đò là những hình ảnh gợi nhắc về sự kết nối, nhưng nhà thơ lại loại bỏ hoàn toàn, như thể chính nhà thơ đang bị ngăn cách với thế giới loài người, hoặc tư tưởng của nhà thơ đã không thể tìm được sự đồng điệu với mọi người, nên đành gửi tâm tư vào thiên nhiên rộng lớn. Với câu thơ cuối của khổ tác giả sử dụng nhiều màu sắc để chấm phá cho bức tranh. "Bờ xanh tiếp bãi vàng" - sắc tranh tươi sáng, nổi bật nhưng đi kèm với từ láy "lặng lẽ" làm chìm màu sắc này xuống. Giờ đây hai hình ảnh này không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy này cũng làm cho không khí đìu hiu "lây lan" từ vật này sang vật khác. Tất cả sự vật đều nhấn chìm trong cô độc. Sầu nhân thế làm nảy sinh tâm lý về sự vô nghĩa của kiếp người. Tư tưởng hư vô nảy sinh, con người thấy chẳng có gì là bền vững, không có gì là nghĩa lý cảTrời hỡi trời hôm nay ta chán hếtNhững sắc màu hình ảnh của trần gianĐó chính là nỗi lòng của Huy Cận, một nhà thơ đang mất phương thơ cuối, cảnh vật vẫn ảm đạm đìu hiuLớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ láy “lớp lớp” diễn tả sự lặp lại, vừa tả cảnh thiên nhiên chỉ toàn mây và núi, vừa tả sự nhàm chán, buồn tẻ trong tâm hồn người nghệ sĩ. Một cánh chim nghiêng đổ cả hoàng hôn xuống vạn vật, dấu hai chấm diễn tả sự nhảy bước của thời gian. Nhà thơ có cái nhìn rất tinh tế khi miêu tả thiên nhiên đầy tráng lệ, hùng vĩ, vận động rất đẹp và thơ. Từng lớp mây vốn nhẹ nhàng trôi giờ tiếp nhau tạo thành những hình núi đẹp đẽ, lớn lao, từng áng mây mang nội lực, mang sức sống bất diệt, trường tồn. Hai câu thơ cuối hé mở về tâm trạng của nhà thơ. Từ láy “dợn dợn” thể hiện nỗi bâng khuâng cô đơn trào dâng trong lòng. Tất cả cảm xúc dồn lại đem đến nỗi “nhớ nhà”. Câu thơ có mượn ý thơ của Thôi HiệuQuê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khói sóng cho buồn lòng ai?Tràng giang là một bài thơ của sầu vạn cổ, thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật của Huy Cận. Bài thơ mang đậm màu sắc cổ điển cũng như tấm lòng tha thiết đối với quê hương đất nước của nhà thơ.
Bài thơ Tràng Giang được xem là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng của Việt Nam, với những câu thơ đầy cảm xúc và tình cảm. Trong bài viết dưới đây hãy cùng chúng tôi tìm hiểu, qua bài thơ Tràng Giang, tác giả Huy Cận muốn gửi gắm điều gì? Mục lục bài viết 1 1. Qua bài thơ Tràng Giang, tác giả muốn gửi gắm điều gì? 2 2. Tác phẩm Tràng Giang Hoàn cảnh sáng tác Thể loại Phương thức biểu đạt Nhan đề Lời đề từ Bố cục 3 3. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ Tràng Giang Giá trị nội dung Giá trị nghệ thuật Bài thơ Tràng Giang của Tố Hữu là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng của Việt Nam. Bài thơ được viết vào năm 1959, trong giai đoạn đầu của chế độ cộng sản Việt Nam. Bài thơ là một tác phẩm rất đặc sắc, chứa đựng những thông điệp sâu sắc về cuộc sống và con người. Trong bài thơ, Tố Hữu sử dụng nhiều hình ảnh và từ ngữ để truyền tải thông điệp của mình về sự tương phản trong cuộc sống, sự đổi mới và sự tự do. Bài thơ miêu tả sông Tràng Giang với những con sóng lớn và nhỏ. Những con sóng lớn tượng trưng cho sự đổi mới, sự tiến bộ và sự tự do, trong khi những con sóng nhỏ tượng trưng cho sự bảo thủ, sự giữ gìn truyền thống và sự cứng nhắc. Tác giả muốn nhắn nhủ rằng, trong cuộc sống, sự tương phản giữa những giá trị này là rất quan trọng và cần thiết. Bên cạnh đó, Tố Hữu còn sử dụng nhiều hình ảnh khác như “cánh diều”, “mây trời”, “sương khói” để miêu tả cảnh vật và tăng tính thơ mộng cho bài thơ. Tuy nhiên, những hình ảnh này cũng mang trong mình những ý nghĩa sâu xa về cuộc sống và con người. Tác giả cũng nhấn mạnh đến vai trò của con người trong cuộc sống. Người đọc có thể cảm nhận được rằng tác giả muốn khuyến khích chúng ta tìm kiếm sự đổi mới, không ngừng sáng tạo và không ngừng khao khát tự do. Những giá trị này, theo Tố Hữu, là những yếu tố quan trọng trong cuộc sống, giúp con người phát triển và trưởng thành. Tác giả cũng sử dụng nhiều hình ảnh tượng trưng để miêu tả các ý tưởng của mình. Trong bài thơ, Tố Hữu miêu tả những con sóng lớn như những cánh buồm, đại diện cho sự mạnh mẽ và động lực. Trong khi đó, những con sóng nhỏ được miêu tả như những chú chim, tượng trưng cho sự yếu đuối và bảo thủ. Tác giả muốn cho chúng ta thấy rằng, trong cuộc sống, sự tương phản giữa những giá trị này là rất quan trọng và cần thiết. Bài thơ Tràng Giang cũng nhấn mạnh đến ý nghĩa của việc đổi mới và sáng tạo. Tác giả cho rằng, để phát triển và tiến bộ, chúng ta cần có sự đổi mới, tìm kiếm những cách tiếp cận mới và không ngừng sáng tạo. Tố Hữu muốn cho chúng ta thấy rằng, sự đổi mới và sáng tạo là rất cần thiết trong cuộc sống, giúp chúng ta vượt qua những thách thức và tiến lên phía trước. Bên cạnh đó, bài thơ Tràng Giang còn nhấn mạnh đến ý nghĩa của sự tự do. Tác giả cho rằng, sự tự do là quyền của con người, giúp chúng ta tự do hành động và tự do tư duy. Tác giả muốn cho chúng ta thấy rằng, sự tự do là một giá trị rất quan trọng trong cuộc sống, giúp chúng ta phát triển và trưởng thành. Tuy nhiên, để hiểu được ý nghĩa của bài thơ, người đọc cần phải đọc kỹ và suy nghĩ sâu hơn. Bài thơ không phải là một bài thơ dễ hiểu, nhưng nó lại chứa đựng những thông điệp vô cùng quan trọng về sự tương phản trong cuộc sống, sự đổi mới và sự tự do. Bài thơ Tràng Giang là một tác phẩm văn học đặc sắc của văn học Việt Nam và đã được nhiều người yêu thích và tôn vinh. Tóm lại, bài thơ Tràng Giang của Tố Hữu là một tác phẩm văn học đặc sắc, chứa đựng những thông điệp sâu sắc về cuộc sống và con người. Tác giả đã sử dụng nhiều hình ảnh và từ ngữ để truyền tải ý nghĩa của mình về sự tương phản trong cuộc sống, sự đổi mới và sự tự do. Bài thơ cho chúng ta thấy rằng, sự tương phản giữa những giá trị này là rất quan trọng và cần thiết trong cuộc sống. Ngoài ra, bài thơ còn muốn khuyến khích chúng ta tìm kiếm sự đổi mới, sáng tạo và tự do, giúp chúng ta phát triển và trưởng thành. 2. Tác phẩm Tràng Giang Hoàn cảnh sáng tác Vào mùa thu năm 1939, tác giả đứng trước sông Hồng đầy mênh mông sóng nước, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và trầm mặc suy tư về cuộc đời. Trong giây phút đó, ông cảm nhận được rằng cuộc đời là một hành trình dài đầy những cung bậc cảm xúc và trải nghiệm khác nhau. Ông suy nghĩ về những người bạn đã gặp, những người đã bước qua cuộc đời ông và cũng như những người sẽ đến sau này. Những hoài niệm và kỷ niệm đẹp đã tràn ngập trong tâm trí ông, như một kỷ niệm đáng nhớ của một thời thanh xuân. Cảm giác này đã động viên ông sống một cuộc đời đầy tràn đầy cảm hứng và ý nghĩa. Thể loại Tác phẩm Tràng giang thuộc thể loại thơ bảy chữ, với phong cách đặc trưng của thơ ca Việt Nam. Phương thức biểu đạt Trong tác phẩm Tràng Giang, tác giả đã sử dụng cách thể hiện tinh tế để truyền tải những tinh cảm và suy nghĩ sâu sắc của con người. Tác giả đã sử dụng nhiều hình ảnh và từ ngữ để tả sự thanh bình, u tối và giải thoát trong tâm hồn con người. Những hình ảnh và từ ngữ này không chỉ tạo ra một bức tranh hoàn chỉnh về cảnh vật mà còn là một tác phẩm văn học mang tính triết lý cao. Nhờ đó, tác phẩm này đem lại cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống và giúp họ hiểu sâu hơn về bản chất của con người. Ngoài ra, tác giả cũng đã áp dụng các kỹ thuật văn học khác nhau để tạo ra một tác phẩm đa chiều và phức tạp hơn. Bằng cách sử dụng những mô tả chi tiết và tinh tế, tác giả đã tạo ra một thế giới trong tâm trí người đọc, cho phép họ cảm nhận được sự đa dạng và sâu sắc của các cảm xúc và trăn trở trong tác phẩm. Cuối cùng, tác phẩm này cũng có thể được coi là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, vì nó kết hợp giữa văn học và nghệ thuật, tạo ra một trải nghiệm tuyệt vời cho người đọc. Nhan đề Từ Hán Việt “Tràng giang” sông dài gợi lên không khí cổ kính của một thời đại xa xưa. Những từ ngữ này tạo nên một dư âm vang xa, trầm lắng và mênh mang, khiến cho người đọc cảm thấy như đang bước vào một không gian thần tiên. Bên cạnh đó, nỗi buồn rợn ngợp cũng hiện hữu trong đoạn văn này, như một sự đối lập với không khí cổ kính. Điều này khiến cho câu chuyện trở nên phức tạp và đầy sắc thái, chứ không chỉ đơn thuần là một mẩu truyện ngắn. Lời đề từ Lời đề từ của bài thơ truyền cảm của nhà thơ đã thể hiện được một cách rõ ràng nỗi lòng của tác giả trước không gian bao la, mênh mông khó tả. Những từ “bâng khuâng” đã tuyệt vời thể hiện được cảm xúc của nhà thơ. Hình ảnh “trời rộng” được nhân hóa “nhớ sông dài” cũng là cách ẩn dụ tình cảm nhà thơ dành cho những ký ức xưa cũ. Ngoài ra, tác giả đã thể hiện được nỗi buồn trước cảnh vũ trụ bao la bát ngát, cùng với hình ảnh thiên nhiên rộng lớn thể hiện sự cô đơn và nhiều nỗi niềm trong tâm hồn của một cá nhân. Từ đó, câu “→ Câu này là khung cảnh để tác giả triển khai toàn bộ cảm hứng” như một lời kết thúc hoàn hảo cho bài thơ đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khác nhau. Bố cục Bố cục của bài thơ bao gồm hai phần Phần 1 Hai khổ thơ đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên với những chi tiết sống động, cùng với tâm trạng của nhà thơ được thể hiện qua những từ ngữ tinh tế. Phần 2 Hai khổ thơ cuối thể hiện tình yêu đối với quê hương, đất nước được nhà thơ yêu mến và tâm hồn đậm sâu, tình cảm chân thành với những giá trị văn hóa truyền thống của đất nước. 3. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ Tràng Giang Giá trị nội dung Bức tranh thiên nhiên mang lại cho ta một vẻ đẹp tuyệt vời, giúp ta thấy rằng mình chỉ là một phần nhỏ bé trong vũ trụ rộng lớn. Điều đó khiến cho cái tôi của chúng ta càng trở nên cô đơn hơn. Tuy nhiên, nó cũng đánh thức trong ta niềm khát khao hòa nhập với đời và yêu quê hương đất nước của mình một cách tha thiết hơn. Ta muốn được sống và làm việc trong một môi trường đầy đủ tình yêu thương và sự đoàn kết. Bởi vậy, tôi tin rằng giá trị nội dung của bức tranh thiên nhiên không chỉ đơn thuần là vẻ đẹp mà còn là sự khai thác và nhấn mạnh thêm những giá trị đích thực của cuộc sống. Giá trị nghệ thuật Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và hiện đại, tạo nên một sự độc đáo và đẹp mắt. Từ đó, giá trị nghệ thuật được đánh giá cao bởi sự tinh tế trong thiết kế và sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Ngoài việc sử dụng đối và bút pháp tả cảnh, giá trị nghệ thuật còn được thể hiện qua sự tinh tế trong việc chọn màu sắc, độ sáng tối của tranh, tạo nên một hệ thống từ láy phức tạp và giàu giá trị biểu cảm. Những yếu tố này đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh và đầy sức sống. Không chỉ dừng lại ở mặt trực quan, giá trị nghệ thuật còn mang đến cho người xem một trải nghiệm tinh thần sâu sắc về tình cảm, suy nghĩ và triết lý. Từ những đường nét, sắc thái, màu sắc của tác phẩm, người xem có thể cảm nhận được sự truyền tải tinh tế của nghệ thuật và từ đó rút ra được những bài học giá trị về cuộc sống và con người
HUY CẬN Tràng giang không chỉ là một bài thơ hay của Huy Cận mà còn là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Đôi khi người ta thường hiểu Tràng giang là bài thơ miêu tả phong cảnh quê hương đất nước, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, nhưng đúng hơn đây là bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Tràng giang in trong tập Lửa thiêng của Huy Cận, xuất bản năm 1940. Đúng như nhà thơ Huy Cận từng nói, bài thơ này được sông Hồng quãng Chèm, Vẽ và những con sông khác gợi tứ, nhưng nó là bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra, nên như kéo dài triền miên1. Trước hết ta chú ý đầu đề bài thơ là Tràng giang chứ không phải “Trường giang”, để ta không lầm với sông Trường Giang Trung Quốc, hay con sông dài dài nói chung. Trong tiếng Việt “tràng giang” thường nằm trong thành ngữ “tràng giang đại hải”, chỉ một hiện tượng mênh mông bất tận mà trống rỗng khiến người ta chán chường. Mở đầu bài thơ đúng là một cảnh sông nước mênh mông bất tận Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng. Ta chú ý đến chuỗi biểu tượng về sự rời rạc, cô đơn, vô định của khổ thơ. Ngay câu đầu bài thơ không chỉ nói sông, mà nói buồn, nói về một nỗi buồn bất tận, bằng một hình ảnh ẩn dụ sóng gợn tràng giang trùng trùng điệp điệp, như nỗi buồn trùng trùng điệp điệp. Giữa tràng giang mà điểm nhìn nhà thơ tụ vào con sóng nhỏ, tuy rất nhiều, nhưng hiện ra rồi tan, muôn thuở. Con thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, cô đơn, vô định. Ở đây con thuyền buông mái chèo xuôi dòng xuôi mái theo dòng nước, nhưng thuyền và nước chỉ “song song” với nhau chứ không gắn bó gì với nhau, bởi nước xuôi trăm ngả, thuyền theo ngả nào ? Thuyền đi với dòng để rồi chia ly với dòng. Câu thứ ba đã nói tới sự chia ly “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Thuyền buồn vì phải rẽ dòng. Nước buồn như không biết trôi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện tập trung cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng, vô định “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Cái nhìn của nhà thơ vẫn tập trung vào các vật nhỏ sóng, thuyền, củi khô. Tác giả lưu ý, không phải là cây gỗ, thân gỗ, mà chỉ là “củi một cành khô”, một mảnh rơi gẫy, khô xác của thân cây. Cả khổ thơ đầu đã vẽ lên một không gian sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ hững. Những đường nét nước song song, buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng không hứa hẹn gì về hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia tan, xa vời. Trên con sông đó một con thuyền, một nhánh củi lênh đênh càng tỏ ra nhỏ nhoi, bất lực. Ở đây không chỉ thuyền buồn, cành củi khô buồn, mà cả sóng gợn, sông nước đều buồn. Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ của khổ đầu Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống, trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Một cái cồn nhỏ lại nhỏ ! lơ thơ, vắng vẻ, lại thêm ngọn gió đìu hiu, càng thêm vắng vẻ buồn bã hơn, như bị cuộc sống bỏ quên. Huy Cận nói, ông đã học được chữ “đìu hiu” trong câu thơ Chinh phụ ngâm khúc “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” cũng nói về cảnh vắng vẻ, không người. Âm thanh của cuộc sống náo động của các phiên chợ, của làng quê nghe rất xa vắng, chợ chiều làng xa mà lại đã vãn, càng tăng thêm cảm giác bị bỏ quên ở đây. Hai dòng cuối càng tô đậm thêm cảm giác lạc lõng nắng xuống, trời lên không chỉ gợi ra khung cảnh nắng chiều, mà bản thân hai hướng lên xuống như không ăn nhập với nhau, và sông dài, trời rộng càng tăng thêm cái vắng vẻ của bến sông. Cô liêu là vắng vẻ. Trong hai dòng này nhà thơ đã đem đặt bên nhau những yếu tố vốn không có gì là buồn để tạo nên một cảnh buồn. Giữa các yếu tố đó đều có đặt dấu phẩy ,. Khổ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên hệ giữa các sự vật. Con mắt nhà thơ nhìn vào bèo, những sinh thể nhỏ nhoi, yếu đuối giữa mặt nước mênh mông Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Vẫn các sự vật đặt bên nhau bèo hàng nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng, hai bờ sông mênh mông không cầu, không đò ngang, tạo thành một thế giới không liên hệ. Từ sóng, thuyền, củi, dòng trôi, đến cồn nhỏ, làng xa chợ chiều, rồi nắng xuống, trời lên, sông dài, trời rộng, bến vắng… mọi vật thì vẫn có, nhưng không vật nào có ý tìm nhau, đến với nhau, cần đến nhau. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Lớp lớp mây cao đùn ra thành từng núi mây bạc. Chữ “đùn” mượn từ thơ cổ của Đỗ Phủ, nói rằng mây trồi ra, lừng lững như núi trên trời có một vẻ đe dọa. Cánh chim bé nhỏ lại bé nhỏ ! nghiêng nghiêng bay về tổ ấm được cảm nhận như chịu sức nặng của bóng chiều đè xuống. Bóng chiều mông lung bỗng trở thành có hình có khối như có thể cảm nhận được bằng đôi cánh nhỏ. Và cánh chim bay đi đâu cho thoát khỏi cái bóng chiều đang đè nặng xuống mình ? Lòng quê là lòng nhớ quê hương, lấy từ hai chữ hương tâm, chứ không phải là tấm lòng chất phác, quê mùa. Dợn là gợn lên, như ta nói sóng dợn, chỉ một chất lỏng xao động chuyển động dâng lên, uốn xuống. Dợn dợn là dợn liên tục, nhiều lần, không phải là dờn dợn, chỉ mức độ xao động thấp1. Ý nói hô ứng với mấy chữ “sóng gợn”, “điệp điệp” ở dòng đầu bài thơ. Chính vì vậy mà nhà thơ phiền lòng khi thấy người ta đọc chệch thành dờn dợn hay rờn rợn, làm mất nghĩa câu thơ. Cả câu này có nghĩa là lòng nhớ quê hương dâng mãi lên khi phóng tầm mắt nhìn con nước. Chữ vời cũng hay, ta cảm thấy như gặp ý câu Kiều Bốn phương mây trắng một màu Trông vời cố quốc biết đâu là nhà ? Lòng nhớ quê được gợi lên từ mây trắng, từ cánh chim chiều, nhưng mạnh hơn là từ con nước. Và nhà thơ kết thúc bài thơ bằng câu “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Viết câu thơ này chứng tỏ Huy Cận đã biết có câu thơ Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc lâu do Tản Đà dịch “Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Nhà thơ dựa ý thơ Thôi Hiệu để nói ý mình. Nhiều người, kể cả nhà thơ, khi đọc đến câu này đều nói rằng Huy Cận buồn hơn Thôi Hiệu, bởi Thôi Hiệu trông “khói sóng” mới nhớ nhà, còn Huy Cận thì ngược lại, “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Thực ra, ai buồn hơn ai làm sao mà xác định được. Điều quan trọng là Huy Cận có một ý thơ khác. Xưa Thôi Hiệu buồn vì cõi tiên mờ mịt, quê nhà cách xa, khói sóng trên sông gợi lên cảnh mờ mịt mà sầu. Nay Huy Cận buồn trước không gian hoang vắng, sóng gợn tràng giang khiến ông nhớ tới quê hương như một nguồn ấm áp. Xưa Thôi Hiệu tìm giấc mơ tiên chỉ thấy hư vô, lòng khát khao một cõi quê hương thực tại. Nay Huy Cận một mình đối diện với khung cảnh vô tình, dợn lên nỗi khát khao quê nhà ấm áp. Một đằng là ý thức về thực tại, một đằng là ý thức về tình người. Tràng giang là một bài thơ buồn, dòng nào cũng buồn. Cái buồn toát ra từ những vật bé mọn, như những kiếp người cô đơn, lạc lõng giữa không gian bao la. Nhưng Tràng giang là một bài thơ vẽ lên một phong cảnh đẹp, giàu màu sắc núi bạc, bờ xanh, bãi vàng, nhiều đường nét hùng vĩ, mở ra vô tận buồn điệp điệp, sâu chót vót, sông dài, trời rộng…, nhiều tương phản, nhiều động từ chỉ sức sống rộn ràng sóng gợn, mây đùn, thuyền về, nước lại, nắng xuống, trời lên… Cái buồn của bài thơ rõ ràng không phải do cảnh vật tàn phai, không gian chật hẹp tù túng, mọi vật chết chóc, ngưng đọng. Cái buồn như toát ra từ cấu tạo của thế giới, từ cái đẹp thiếu tình người, từ một sự mất mát các mối liên hệ có tính phổ quát gây nên. Một cái buồn đậm màu triết lý. Nỗi buồn này cũng phản ánh sự đổi thay của đời sống xã hội xã hội cộng đồng truyền thống với vô vàn mối dây liên hệ đã đứt tung để thay vào một xã hội đô thị với những cái tôi rời rạc, bơ vơ.
tràng giang thuộc thể thơ gì